Dậu gánh đến đây bán được bao nhiêu thì bán nếu khi chợ tan mà bán chưa hết họ tiếp tục gánh đi khoảng hai chục cây số nữa ra thị trấn ngủ lại các Đình chợ chờ họp phiên chợ huyện hôm sau.
Phiên chợ xã là hai dãy lán rơm, một dãy bán hàng quần áo giày dép, dãy còn lại là bán mắm muối, rượu và tạp hóa lẫn lộn. Lác đác bên ngoài là những người bán rau rừng, bán ngô, đỗ tương...Lưa thưa có vài ba quán phở, phở ở đây duy nhất là phở thịt ba chỉ mà đông nghịt người. Bàn Minh gặp lại mấy người bạn học cùng hồi cấp một, hai họ tay bắt mặt mừng nói vui gọi Minh là "cán búa" (tức cán bộ) về bản, họ mời nhau vào quán phở ngồi uống rượu suông để hàn huyên, Minh nháy mắt cho mấy ông bạn người xuôi cùng vào ngồi làm quen. Tự nhiên vào quán ngồi uống rượu sex (rượu suông) mấy ông bạn quê xuôi cảm thấy ngần ngại vì nếu ở quê họ mà như thế rất có thể sẽ bị người ngoài chê cười nghĩ là đám thanh niên này nghiện rượu mất. Nhưng ở đây nhìn xung quanh cũng toàn thấy có cả các cụ và thanh niên xúm lại theo từng nhóm để uống rượu suông và hãm rượu bằng nước lã cứ ai gọi chai nào trả tiền chai đó. Vinh béo nhớ lại kiểu bán rượu này giống như kiểu bán hàng ở căng tin của trường Đại học văn hóa Hà Nội mà Vinh đã từng đến đó chơi thấy cứ ai gọi gì phải trả luôn tiền nấy. Vinh để ý những nhóm bên cạnh có một ông cụ vừa nâng chén rượu vừa lau nước mắt nghẹn ngào, Vinh vỗ nhẹ vai Bàn Minh theo dõi ông cụ nói câu tiếng Tày: " Bạc ni mí chừ ni pỉ nọong náo, bạc ni tôm ni nhả sày". Minh dịch lại câu nói cho các bạn biết nghĩa là : Bác chạy không phải là chạy anh em đâu, bác chạy đất chạy cỏ thôi". Minh biết ông ấy cũng nghèo lắm, anh em họ hàng đều rời quê đi vào Lâm Đồng, Đắc Lắc gì đó có lẽ ông cũng chuẩn bị dọn đi cùng anh em nên nói với mọi người như thế.
Trong nhóm bạn học cùng hồi cấp một, hai với Minh thì có Phương (dân tộc Tày) là một trong những người bạn thân nhất. Nhà Phương gần trường nên những hôm lao động buổi chiều biết Bàn Minh nhà xa trường nếu về xong chiều sẽ không kịp quay lại trường lao động nên Phương thường mời bạn về nhà mình ăn cơm rồi chiều lao động luôn. Bố mẹ Phương cũng tốt tính hiền lành và quý Bàn Minh như con, do nhà đông anh em hoàn cảnh khó khăn nên Phương học dở rồi đi làm thuê ở Mỏ Thiếc Tĩnh Túc nhưng thu nhập thấp quá sau đó vào tận Sài Gòn kiếm việc khác vài năm sau trở lại quê lấy vợ và đã có con. Về quê chuyến này ra chợ gặp lại nhau Minh thấy Phương già và gầy đen đi rất nhiều. Mời nhau vài ly rượu suông nhắc lại những kỉ niệm cũ rồi Bàn Minh nói:
- Từ thời mình học với nhau đến giờ quê mình chả có gì thay đổi là bao mày nhỉ?
- Ừ, biết sao được. Đất thì cằn cỗi, dân nghèo vẫn hoàn nghèo. Mày xem ai có tí tiền thì họ đã đi kiếm mua chỗ khác rồi chuyển đi. Mày thì may mắn được đi học trường Nội trú rồi được đi học cử tuyển chứ như bọn tao nếu học được mãi bố mẹ cũng có đủ điều kiện cung cấp đâu mà cho đi học mãi được.
- Ừ, ngoài hoàn cảnh ra tư tưởng của các cụ lúc nào cũng chỉ nghĩ con gái đi học thì sau này mang cái chữ về nhà chồng mất, con trai đi học cũng chẳng đến lượt con mình làm quan nên chỉ cần cho con học sơ sơ là đủ thế mới chán ...
- Hì, mày học Đại học rồi sau này về xem làm thế nào thay đổi được tư tưởng các cụ thì được thôi.
- Biết thế nhưng liệu một mình tao có làm nên trò trống gì không ...
Nét mặt Bàn Minh lại thoáng buồn, Minh nhìn xa xăm một cách mông lung về phía chân trời xa rồi từ từ quay lại rủ các bạn tiếp tục nâng ly.
Phiên chợ tan, bốn chàng sinh viên mỗi người một quê ấy lại dẫn nhau ngược dốc về nhà "thằng con núi" . Họ đi theo những lối mòn, đi qua những đám nương ngô trên sườn đồi, những khóm ngô càng lên sườn đồi cao thân ngô càng thấp lè tè. Đúng như người miền núi thường nói, ruộng tốt phần trên, rẫy tốt phần dưới. Nghĩa là thường thì ruộng bậc thang những đám ở đầu trên cùng tiếp giáp với đồi núi, khi mưa nước lũ trôi dạt các chất mùn đất, lá cây từ trên đồi xuống ruộng sẽ tốt hơn những đám bên trên, nương rẫy thì ngược lại, lâu năm bị xói mòn dần, phần đất thịt dồn về phía cuối nên càng lên cao đất càng xấu. Ở đây do canh tác lâu năm đất đã bị xói mòn, những cây ngô lá hơi vàng còi cọc, râu ngô đã đen nhưng bắp ngô chỉ to bằng ngón chân cái . Đã có nhiều gia đình trong bản bị mất mùa nhiều năm nên phải di cư đi nơi khác kiếm kế sinh nhai, nhà bác Dùng cũng đang chuẩn bị chuyển cư nhưng chưa bán được nhà đành phải dỡ mang cột, kèo lên xếp trong hang khô dưới chân núi.
Buổi chiều đẹp trời trên sườn đồi của vùng đất nghiêng nghiêng dưới chân núi ấy không khí thật thoáng đãng. Trên nương cờ ngô phơ phất trên nền xanh của lá ngô, ánh lá xanh vàng loáng lên dưới ánh mặt trời rồi trở màu sẫm huyền bí trong vô vàn tiếng lá chạm vào nhau xào xạc, mỗi khi cơn gió lao xao thổi về.
***
Biết mấy bạn cùng đi chơi nhà Minh đang quay lại trường, Bàn Tăng quê Tuyên Quang nhắn tin hỏi Bàn Minh: -" Đã xuống đến nơi chưa, về quê có quà gì không?"
Bàn Minh nhắn lại: - "Có tý rượu ngô, mày có thưởng thức thì qua đây làm tý!"
Biết được hoàn cảnh của nhau Bàn Tăng "OK" rồi rủ cả Ngân quê Điện Biên nữa ra chợ mua được vài quả trứng gà tàu và con cá rô vài lạng đem sang góp vui cùng. Bố mẹ tích gom có được trên dưới một triệu đồng cho Bàn Minh cầm đi, phải tiêu tiền xe tiền ăn dọc đường, xuống đến phòng trọ còn vài trăm nghìn Bàn Minh vội vàng ra chỗ ký nợ thức ăn thanh toán và kiêm lấy luôn tý cá khô, rau cỏ, còn lại vài đồng sắm dầu gội xà phòng xong đã hết sạch, về phòng đến lúc bắt tay vào nấu nướng mới biết là mình đã hết dầu ăn mà quên không sắm. Bàn Minh chạy ra quán cô Tâm mà mọi lần hay ký nợ mì tôm để kiếm ký lấy chai dầu nhưng cô đã đi vắng đóng cửa, Minh thở dài nghĩ cách quay lại quán thức ăn với ý định tìm rau dưa chua để nấu canh cá còn trứng sẽ luộc chấm súp nhưng rau dưa đã hết, Minh lại thở dài giãi bày tâm sự với chị Hồng bán thức ăn, hiểu được hoàn cảnh chị gợi ý cho Minh lấy tý thịt mỡ để rán cho ra mỡ rồi rán cá, thế là giải quyết được vấn đề. Lúc lên mâm vẫn theo thói quen phong cách ở quê, Ngân thường hất chút rượu ra ngoài trước khi uống chén đầu, nó giải thích với các bạn về ý nghĩa của cử chỉ này là đối với người dân tộc Thái của bạn trước khi ăn uống phải nhớ đến những người đã khuất, hất chút rượu ra ngoài nghĩa là đã dành phần cho những người ở cõi Âm. Mọi người lại rôm rả kể cho nhau nghe về những phong tục tập quán riêng của quê mình...
***
Sau lần về quê ấy những lần sau và lần sau nữa Bàn Minh vẫn thăm dò tin tức đứa em con dì ruột nhưng đều vô vọng, đứa em đã mất tích mãi mãi không trở về, mỗi lần nhắc đến dì chỉ biết khóc trong tuyệt vọng coi như nó đã chết rồi.
Bàn Minh đi học xa, còn lại các em gái ruột đều đã đi lấy chồng, ở nhà còn lại thằng em trai thất học ở cùng bố mẹ. Khó khăn chồng chất lên khó khăn mà gia đình ông Bàn Sơn vẫn cắn răng chịu đựng. Bệnh đau răng không còn xa lạ với ai, thường những ai bị đau thì đi chợ huyện nhổ nếu ai tiếc tiền hay túng quá phải ở nhà chịu đựng. Ông Bàn Sơn cũng không ngoại lệ, mới sau trận mưa rào nhưng trời oi bức cộng với những tiếng muỗi cứ vo ve bên tai khiến người bình thường còn khó ngủ chứ nói gì như người đang đau răng như ông. Ông nằm trên chiếc giường hẹp, chiếc màn rách nhiều chỗ, chỗ rách to kéo dồn dùng vỏ bo buộc lại chỗ rách nhỏ thì kệ đấy, chiếc chiếu cõi cũ lưa thưa muỗi có thể dí vòi từ dưới xuyên qua những khe lớp chiếu rách cắm vào người ông bất cứ lúc nào, ông lăn đi lăn lại thi thoảng lại gãi chân gãi cổ vì muỗi đốt ngứa. Ông cảm nhận như con sâu răng đang cắn lấy từng mảnh xương hàm dưới gốc răng của mình. Bực quá ông dùng chiếc khăn mặt nồng nặc mùi mồ hôi của mình phất đuổi muỗi và lẩm bẩm: "Tổ cha chúng mày, tại chúng mày bé quá nếu chúng mày lớn thì ông bắt được dùng dây thừng chói hết vào cột nhà..."
Bà vợ nằm bên trong ngăn vách phì cười bảo: "Ông điên mất rồi à ..."
Ông Sơn càng thấy bực hơn nhưng nghĩ lại câu nói của mình cũng hơi buồn cười.
Đời ông quanh năm làm lụng vất vả, suốt hơn nửa cuộc đời ông gắn liền với việc lên nương ngửi đất, ngửi cỏ ngắm giun, khom lưng đội mưa nắng, cuộc sống vẫn đói nghèo vậy. Thương đau bệnh tật gắn liền với kham khổ đều dồn đến với ông nên trông ông già trước tuổi cũng là lẽ thường. Thời gian cứ trôi theo màn đêm rồi gà đã gáy canh hai canh ba ông vẫn chưa thể chợp mắt được giây phút nào, ông rên rỉ lăn đi lăn lại làm cho giát giường nứa kêu kèn kẹt, ông nhớ đến cái chum đất nung đặt ngoài chân vách hình như vẫn còn rượu, ông dậy thắp đèn dầu đi múc một bát uống vài ba ngụm rồi múc đầy bát mang đặt để đầu giường với ý định ngậm dần cho tê mồm tê miệng để giảm đau. Vừa buồn ngủ vừa mệt nên được vài ngụm rượu phê phê cộng với ngụm đang ngậm trong mồm tê lợi tê lưỡi nên ông cũng thiếp đi. Ngụm rượu trong mồm nóng dần lên rồi cái đau trở lại làm ông thức tỉnh và nhổ ngụm rượu rồi ngậm lấy ngụm khác, cứ thế ông ngậm từ ngụm này đến ngụm khác mà trời vẫn chưa sáng, đôi khi ông vừa thiếp đi thì miệng hở làm rượu chảy ra ướt cả chiếu mà ông vẫn chưa được giấc nào lành bực quá ông nảy ra ý định xử lý chiếc răng cho khỏi đau nhưng không biết giải quyết bằng cách nào cho hợp lý. Ông nhớ hồi cha ông còn sống có kể đã từng xử lý chiếc răng bị đau bằng cách dùng đầu đũa đục thẳng vào lỗ rỗng của chiếc răng cho vỡ ra từng mảnh vứt đi nhưng chảy máu rất nhiều, nghĩ đến phương pháp của cha có vẻ không ổn nên ông dùng vỏ cây bo buộc thắt chặt chiếc răng đau, đầu dây còn lại buộc vào chiếc đũa sử dụng chiếc đuã theo kiểu đòn bẩy để bẩy nhổ răng nhưng không thành công vì lần thì bị tuột, lần thì gãy đũa ông lại nghĩ cách khác.