Học xong, tôi được nhận về dạy học tại trường trung học cơ sở của xã. Tôi vui mừng cầm quyết định nhận cộng tác về cho cha tôi xem, ông cố đánh vần từng chữ một hồi lâu, đọc xong ông nghĩ ngợi một lúc rồi bảo tôi.
"Xã khác nó không nhận mày hở Ngần? Về Piềng Đông mình dạy cái chữ cho người bản mình mày làm sao được, với lại mày định đi làm cán bộ bao nhiêu năm thì mới lấy chồng? Mày còn chưa lấy chồng thì không nên ở bản đâu..."
***
Tôi những tưởng cha sẽ vui và tự hào lắm chứ nhưng những gì ông nói lại như nhát dao đâm vào tim tôi. Những đứa bạn cùng trang lứa với tôi ở trong bản giờ đã đi lấy chồng sinh con hết rồi, có đứa năm nay đã sinh đến đứa thứ ba, thứ tư. Ở Piềng Đông con gái lớn tuổi mà chưa có chồng là một sự xấu hổ của gia đình, họ hàng. Cha mẹ tôi rất vui khi tôi đã thực hiện được ước mơ trở thành cô giáo nhưng họ không muốn tôi về bản dạy học. Có con gái là cô giáo của bản thì khoảng cách của họ với mọi người sẽ trở nên xa xôi vì người bản sẽ nể sợ họ hơn là quý trọng. Cũng chỉ vì từ trước đến nay tôi là đứa con gái đầu tiên trong cái bản nhỏ ấy dám bỏ nhà ra đi để được đi học, tôi thường làm nhiều điều trái với những tập tục ngàn đời của dân bản. Bao nhiêu năm đã trôi qua rồi nhưng cha tôi vẫn sợ nhiều người sẽ nghĩ rằng, tôi sẽ làm hư con cháu của họ rồi người ta sẽ ghét tôi... Tôi không biết thuyết phục cha mẹ mình như thế nào nữa, những niềm vui của tôi bỗng bị tiêu tan thay vào đó là những nỗi lo sợ.
Ba tuần sau tôi bắt đầu lên lớp, biết bao nhiêu cảm xúc cứ rạo rực trong tôi, tôi đã chạm đến được ước mơ của mình nhưng không hiểu sao tôi cứ có cảm giác mọi thứ đều rất mong manh, cứ như thể đó vẫn là giấc mơ thôi vậy. Ngôi trường mà tôi dạy là trường liên kết cấp một và cấp hai nằm ở gần trung tâm xã và cũng gần ngay đầu bản Piềng Đông. Tuy tôi được phân về dạy cấp trung học cơ sở nhưng vì bên trường cấp một thiếu giáo viên nên tôi được nhà trường cử sang bên đó dạy thay thế một số buổi. Trong lớp tôi dạy cũng có mấy đứa học sinh là người cùng bản với tôi nhưng may thay chúng nó chẳng biết điều đó. Thoảng bố mẹ chúng đi nương rồi tạt qua trường gọi chúng về cùng sau giờ tan học, họ cũng chẳng nhận ra tôi dù một số người từng là bạn học hồi xưa. Tôi thích dạy ở bên trường tiểu học hơn là bên trung học cơ sở, bởi vì các em học sinh lớp một, lớp hai mà tôi dạy ngoan hơn rất nhiều, chúng nó cũng biết yêu cái chữ nhiều hơn. Sau bao nhiêu năm từ ngày tôi còn ngồi học ở đây, ngôi trường này vẫn chẳng có gì thay đổi cả. Các em nữ bên trường cấp hai cứ học đến lớp bảy, lớp tám là lần lượt bỏ học đi lấy chồng gần hết, đến năm lớp chín – năm hết cấp học thì cũng chỉ còn sót lại vài đứa là nhiều. Và có lẽ tôi là đứa duy nhất từ cái khóa ấy đến giờ vẫn chưa lấy chồng, điều mà cha mẹ tôi chẳng lấy gì làm vui.
Ở bên cấp một tôi được phân dạy các em học sinh lớp hai, hầu hết các em đều không thạo tiếng phổ thông nên trong quá trình giảng có khi tôi phải kết hợp cả nói tiếng mẹ đẻ. Các em thích đi học lắm, dù trời mưa bùn ngập đến đầu gối tôi còn thấy ngại khi phải đến trường nhưng khi lên lớp vẫn thấy các em vẫn đến rất đông đủ. Cả lớp chỉ có mười tám em học sinh và cũng như nhiều lớp học các em học sinh nam chiếm đa số, cả lớp chỉ có bảy em học sinh nữ. Tuy thiếu thốn sách vở, đồ dùng học tập và mỗi tuần chỉ đến lớp có năm buổi nhưng tôi phát hiện ra trong lớp tôi dạy có rất nhiều em học sinh sáng dạ. Các em ấy có thể không nghe hoặc nói được nhiều tiếng phổ thông nhưng lại đọc, viết thành thạo và làm Toán rất nhanh. Lứa Thỷ là một học sinh như thế, ngay từ đầu vào lớp tôi đã thấy rất có cảm tình với Thỷ, nhìn cô bé cứ có gì đó quen quen. Mới có tám tuổi đầu nhưng nỗi buồn và sự khắc khổ luôn hiện rõ trên khuôn mặt ngây thơ của Thỷ. Thấy Thỷ chăm học lại cần cù siêng năng trong lao động nên tôi bàn với giáo viên chủ nhiệm lớp cho em làm lớp trưởng nhưng em cứ từ chối mãi, tôi bảo em cứ làm có gì tôi sẽ hỗ trợ nhưng Thỷ đứng lên từ chối cho bằng được. Hỏi lý do thì em bảo:
"Con chẳng thấy ai bảo con gái được làm lớp trưởng cả, trường mình chẳng ai làm, con không làm đâu..."
Tôi mới chợt nhớ ra, cách đó gần mười lăm, mười sáu năm về trước khi tôi còn bằng tuổi Thỷ tôi cũng từng được thầy giáo cử làm lớp trưởng nhưng vì sợ quá nên đã bỏ học. Cha tôi phải đến xin thầy giáo không cho tôi làm lớp trưởng nữa tôi mới chịu quay trở lại lớp học. Chẳng hiểu vì sao ngày đó tôi lại sợ đến như vậy, rồi tôi cũng mới giật mình xem xét lại cả cái trường liên kết cấp một cấp hai Piềng Đông này chẳng có em học sinh nữ nào làm lớp trưởng cả. Cũng như ở bản Piềng Đông từ xưa tới nay phụ nữ không bao giờ làm trưởng bản hay phó bản cả. Tôi thấy buồn khi nhận ra nghịch lý ấy nên dù rất muốn Lứa Thỷ, cô học trò cưng của tôi làm lớp trưởng với hy vọng từ nay về sau trường Piềng Đông sẽ có những lớp trưởng nữ khác để tạo nên một sự cân bằng... nhưng không thể được. Tôi không thể ép Thỷ làm điều mà người ta chưa từng làm, tôi bảo em không phải làm nữa cô bé mới chịu ngồi xuống.
Sau gần nửa học kỳ đi học rất đều đặn bỗng nhiên Thỷ nghỉ học không lí do, tôi thấy rất lạ và lo lắng nữa, gần đây nhiều em học sinh trong trường cũng đột nhiên nghỉ học. Các em học sinh bên trường cấp hai bảo tôi là vì nhà các em ấy giờ đang đến mùa gặt lúa nên phải nghỉ để giúp gia đình. Nghe xong tôi bỗng thấy thương cho tuổi thơ nghèo khó của mình và thương cả các em học sinh của tôi nữa, ngày xưa tôi cũng phải sáng đi học chiều đi nương cùng mẹ. Mười mấy năm trôi qua cuộc sống ở Piềng Đông vẫn thế, các em học sinh vẫn còn vất vả rất nhiều. Tôi chỉ biết khóc thầm khi biết các em học sinh lớp hai của tôi, những đứa trẻ mới có bảy, tám tuổi đầu cũng phải nghỉ học mùa gặt hái để giúp cha mẹ. Thỷ nghỉ đến buổi thứ ba thì tôi thấy lòng mình như lửa đốt, rồi một cảm giác buồn khó tả chợt đến khi một số em học sinh gần nhà Thỷ báo tin chắc Thỷ sẽ bỏ học hẳn. Qua lời kể của các em học sinh, cả các em bên trường cấp hai nữa tôi mới biết rõ hoàn cảnh của Thỷ. Nhìn qua đôi mắt của em cũng đã biết là em có cái gì đó cực nhọc lắm, buồn khổ lắm nhưng tôi không nghĩ là những nỗi niềm ấy lại nhiều đến vậy.
"Nó là chị lớn trong nhà, phải trông em suốt, không làm hết việc nhà là bố mẹ nó đánh đau lắm cô giáo ạ."
"Bố nó hay uống rượu lắm, toàn bắt mẹ nó đẻ em trai cô giáo ạ mà mẹ nó cứ đẻ con gái mãi".
"Nó phải địu em, đi chăn trâu, sáng em thấy nó đi gánh nước ở suối bảo nó đi học cái chữ, nó không nói gì, nó khóc..."
Tim tôi như bị thắt lại, tôi thầm hỏi, Thỷ ơi cô có thể làm gì cho em đây? tôi có thể làm gì được cho đứa học trò nghèo khổ của tôi đây? Có phải làm một cô giáo là chỉ phải dạy học? nhưng tôi không biết nữa tôi còn muốn làm nhiều thứ cho học sinh của mình lắm. Tôi quyết định đến thăm Thỷ và gia đình ngay sau buổi dạy hôm ấy. Nhà Thỷ ở Phiềng Lay một bản nhỏ tận cuối xã, đó là bản của người Xinh Mun. Giữa trưa tôi đi xe máy còn thấy xa thế mà ngày nào Thỷ cũng phải đi bộ đi học. Những con đường đất, trời nắng thì bụi, mưa thì lầy lội thế mà những em học sinh thân yêu của tôi vẫn ngày ngày cắp sách tới lớp trên những con đường như thế này, nghĩ đến đó mà tôi thấy càng thường các em, thương Thỷ nhiều hơn. Dọc đường tôi may mắn bắt gặp người bán hàng rong, tôi mua ít bánh kẹo cho mấy chị em Thỷ. Đến Phiềng Lay theo sự chỉ dẫn của dân bản tôi cũng đã tìm được nhà Thỷ. Ngôi nhà nằm sâu trong nương sắn, quanh nhà trồng vài bụi chuối, trước sân thì trồng mấy cây Đu Đủ cao vút có vài quả non tít trên ngọn cây, quanh thân cây toàn những vết cứa, vết sẹo cũ mới đủ cả. Cạnh bếp là nhà để củi và cái chuồng gà, cả cái chuồng chỉ có một ổ gà mái đang ấp trứng. Trên mái nhà và cả trên các bờ rào đều có váy áo trẻ con đang được phơi nhưng nhìn như bị vứt tứ tung. Ngôi nhà này chắc cũng được dựng lâu rồi vì trông nó khá cũ kỹ, tường nhà là những bức vách nan tre xen kẽ với vài tấm ván, qua những khe hở có thể nhìn vào bên trong nhà. Mái nhà lợp tôn, phần bếp thì lợp mái ngói và mái cọ, căn nhà khá nhỏ và có vẻ hơi siêu vẹo, thế mà nghe đâu nó chứa đến tận năm con người trong ấy.
Đang giờ nghỉ trưa mà căn nhà im ắng lạ thường, cánh cửa cũng được đóng chặt qua những khe hở trên vách tôi chỉ nhìn thấy những mảng tối om trong kia. Trong khi đi qua nhiều nhà khác trong bản đều thấy khói bay lên từ những nếp nhà, tiếng bát đũa khung kheng nhưng ngôi nhà này lại vắng vẻ, im ắng lạ kỳ. Tôi cất tiếng gọi Thỷ nhưng không có tiếng ai trả lời lại, tôi đứng chờ trước sân một hồi lâu nhưng cũng chẳng thấy ai. Sợ cha mẹ chờ cơm trưa lâu quá nên tôi đành quay về nhà, tôi treo túi bánh kẹo lên cửa sổ và để lại một tờ giấy nhắn Thỷ là hôm nay tôi đến thăm em, mong em sẽ sớm đi học trở lại. Lúc tôi quay ra thì gặp một người phụ nữ trạc ngoài ba mươi đang đứng ngoài sân, người chị nhỏ gầy, lem luốc trên vai chị là gánh củi nặng trịch, chắc chắn đó là mẹ Thỷ. Tôi mỉm cười chào chị, giới thiệu rằng tôi là cô giáo của Thỷ, người phụ nữ bỏ vội gánh củi xuống sân, rồi lao vội vào nhà, đóng cửa lại. Tôi có gọi thế nào chị cũng không đi ra, hầu như đã bất lực tôi định quay về thì Thỷ cũng vừa đi chăn bò về, theo sau nó là hai đứa em, một đứa hình như mới đang tập đi, đứa lớn hơn thì cứ lôi đứa nhỏ đi trông đến tội nghiệp. Nhìn thấy tôi Thỷ lao đến ôm chặt và gọi.
"Cô ơi, cô giáo ơi!"
Con bé giờ mặc bộ váy áo rách rưới, người lem luốc, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, mặt và tay đều đầy vết bầm tím. Tôi ôm nó vào lòng và hỏi.
"Sao mấy hôm nay con bỏ học thế, cô nhớ con lắm".
Con bé bỗng òa khóc nức nở, không hiểu sao lúc ấy tôi cũng khóc, hai cô trò ôm nhau khóc một hồi, hai đứa em nó cũng òa khóc lên. Bỗng một bắp ngô từ trong nhà bị ném ra ngoài sân, hai đứa em nhỏ của Thỷ giật mình nín cả khóc.