Nhưng càng ngày ông càng khó tính nên không ai ở nổi với ông, vài tháng sau ông hay kêu than rằng ông cô đơn, rằng không ai hiểu ông, ông là một lão già góa khổ sở... Con cháu đều cố gắng an ủi ông, chiều chuộng ông hơn nhưng không có tiến triển gì. Rồi ông cũng nói thằng ra là ông muốn tái giá, con cháu ông không phản đối việc ông muốn đi bước nữa mà họ muốn ông hãy từ từ, ít nhất phải để tang bà Kìn được một năm đã, Hương những tưởng ông Kìn là một người truyền thống thì ít nhất sẽ theo tục lệ truyền thống là phải để tang vợ ít nhất ba năm. Thế mà chưa đầy ba tháng ông đã đòi đi lấy vợ mới. Luật tục là do con người sáng tạo ra nên con người ta cũng có quyền xóa bỏ nó, sáu tháng sau ông Kìn đi lấy vợ mới. Ông lấy bà Bín người bản bên, là gái già kém ông hai mươi tám tuổi. Bà này ở với em chồng, do tính tình hồi trẻ chanh chua, lười nhác nên mãi chưa có chồng, tuy vậy gia đình bà này vẫn làm cao lắm. Vợ chồng em trai bà Bín yêu cầu sính lễ là hai triệu bạc, một con bò cái, một vòng tay vàng cho bà Bín và một thủa ruộng nhỏ cho gia đình em trai bà vì đã có công "phụng dưỡng" bà. Ngược lại của hồi môn bà Bĩn đem về nhà chồng là hai bộ chăn gối tự dệt, một cái xe đạp và một ít quần áo. Hương bảo chồng, có nhất thiết phải để cho ông lấy một người tham lam như thế không, Pản nghĩ ngợi một lúc rồi bảo vợ, đó cũng là tục lệ, ông lấy ai cũng phải vậy thôi vấn đề là nhiều hay ít.
Người bản bảo Hương sướng vì không phải mất nhiều của hồi môn khi về nhà chồng, bố cô lại còn được nhiều sính lễ từ nhà trai nữa. Chuyện đó thực ra không chính xác như người ta đồn đoán nhưng chẳng ai trong cuộc buồn giải thích. Để lấy được Hương, nhà Pản mất một con bò, ba con lợn nái to, mấy chục con gà và chục yến cá, gạo nếp, rượu để làm đám cưới bên nhà vợ. Đó là tục lệ của người Thái, chứ gia đình Hương không hề bắt buộc. Quà cho riêng Hương là bộ trang sức bạc trong đó có mấy thứ vòng bạc cổ, Hương chẳng bao giờ đeo. Nhà Pản vẫn biếu bố Hương một món tiền lớn dù ông không nhận, không thách cưới. Sau này Hương đã trả lại nhà chồng bằng cách lấy tiền lương giáo viên của mình bù đắp vào những khoản chi tiêu trong gia đình. Bố cô còn cho cô một miếng đất đủ xây nhà ở ngoài thị trấn, phòng khi cô không chịu được cuộc sống ở bản Bơn thì ra đó mà ở, chỗ đất ấy có giá cũng bằng mấy quả đồi của nhà Pản. Nhiều người bản Bơn luôn gắn liền chuyện hôn nhân với vật chất nhưng Hương lấy Pản là vì tình yêu tha thiết anh dành cho cô nên vật chất với họ không quan trọng, chỉ là phong tục nên tuân theo. Pản và bố mẹ chồng của Hương cũng biết điều ấy, nên với họ dù cô có về nhà chồng tay không cũng chẳng ai nói gì. Lấy được cô dâu tài giỏi, xinh đẹp như cô đâu dễ gì, mà nếu cô không đồng ý lấy Pản chắc anh chết lâu rồi. Pản thấy ngại vợ chuyện ông nội mình lắm, anh cứ sợ vợ bỏ nhà đi vì chuyện của ông. Cũng may khi lấy vợ xong ông Kìn không cần con cháu lên ở cùng nữa, mọi người cũng muốn ông với vợ thoải mái nên để ông trên nhà trên một mình. Vài ngày sau khi lấy vợ thấy ông Kìn tươi tỉnh hẳn, ông lại bắt đầu đi chăn dê, làm vườn... Những tưởng mọi chuyện từ đó sẽ thuận buồm xuôi gió, ai ngờ hai mươi ngày sau bà Bín bỏ về nhà và không trở lại nữa. Nhà bà đem trả lại ông Kìn hai triệu và thủa ruộng, còn những thứ khác họ giữ hết cả, mẹ chồng Hương vẫn sang đòi nốt con bò cũng may được mà không xảy ra xô xát gì. Mọi người gặng hỏi nhưng ông Kìn không nói gì nhiều, ông chỉ bảo bà Bín lười nhác nên đuổi về thôi.
Ông Kìn bỏ vợ Hương là người lo lắng nhất, cô sợ lại phải theo chồng lên ở cùng ông nội để cho ông... đỡ buồn, vì cả nhà chỉ còn có hai vợ chồng cô. Vợ chồng anh chị bên chồng đều đã có nhà riêng cả, mà tính ông lại như thế nên cũng chẳng ai dám lên ở. Hương chưa hết lo thì nghe đâu đã có người lên ở cùng ông rồi. Ông Kìn chẳng cần phải đi tìm kiếm đâu xa, nghe đâu người đàn bà này tự tìm đến với ông khi biết ông đang muốn tìm người cùng chung sống. Cả họ Cà Mảy như nháo nhác lên khi nhận được tin này, mọi người vào cuộc điều tra về lí lịch của người đàn bà kia. Người phụ nữ này đã hai đời chồng, toàn bị chồng bỏ cả, bà ta sống bằng nghề hái thuốc, cũng là người cùng xã. Sau vài buổi họp gia đình mọi người nhất trí cho ông Kìn sống cùng bà ta ở nhà trên vì ông Kìn ưng, bà kia cũng ưng hai bên ưng nhau rồi thì cứ thế mà sống, đám con cháu cũng mệt mỏi vì ông lắm rồi.
Dù vậy ông Kìn vẫn có vẻ chưa được hài lòng, ông ậm ừ ám chỉ chuyện đám cưới, con cháu ông im lặng nhìn nhau. Hồi trước cưới bà Bín ông Kìn cũng làm to lắm, dù rằng theo tục lệ đám cưới lần hai không được làm đinh lình. Kệ con cháu nói như thế nào, ông Kìn vẫn bắt các con đi mời hết bạn bè vong niên, tri âm, tri kỉ, thông gia của các con đến cháu tới tham dự hết. Ông bảo việc gì phải giấu, chuyện vui nên để anh em họ hàng cùng biết, cũng là người thân với mình cả. Thế mà chưa được một tháng đã đường ai nấy đi rồi. Lần này con cháu ông cẩn trọng hơn, bố chồng Hương thay mặt cả họ giải thích cặn kẽ nhưng có vẻ như ông Kìn không nghe. Hương liền lên tiếng, cô nói tuy có làm ông nội chồng mếch lòng nhưng cả họ rất ủng hộ.
"Dù sao thì ông bà cũng mới quen nhau, cứ ở cùng nhau dăm bữa coi như là để tìm hiểu, giờ kinh tế cũng đang khó khăn tại ông cũng mới cưới "bà trước" chưa được bao lâu mà. Chúng con nghĩ ông nên để thư thư đã ông ạ, nếu ông muốn có nghi có lễ thì tạm thời cứ làm mâm cơm trình tổ tiên, chúng con cháu trong nhà đến coi như là xem mặt bà mới thôi".
Ở bản Bơn có tục vợ chồng mới thì chăn đệm mới, nên Hương và mẹ chồng lại gấp rút làm cho ông Kìn và người mới một bộ chăn đệm mới nữa. Mong là ông sớm yên ổn cho cả dòng họ đỡ lo, người bản đỡ đồn ra tiếng vào. Nhưng mong là mong vậy, trong năm ấy ông Kìn tiếp tục gặp gỡ và chung sống với hai người phụ nữ nữa, toàn bằng tuổi các con ông cả. Hương cũng ra trường, về bản làm cô giáo rồi sinh con, vợ chồng cô chuyển xuống ở hẳn nhà dưới mặc kệ ông Kìn muốn làm gì ở nhà trên thì cứ làm. Mỗi lần ông đưa một người đàn bà về ở cùng là con cháu họ Cà Mảy lại họp lại làm mâm cơm trình báo tổ tiên, sau bao nhiêu lần như thế Hương thấy ngán ngẩm chẳng muốn đến dự. Tính đến giờ, cuộc tái giá của ông Kìn lâu nhất thì cũng kéo dài được hơn hai tháng, có những tháng chưa tìm được người ông cũng bị cô đơn một mình. Những người đã đến với ông hoặc ông tìm đến đều già có, trẻ có, chưa chồng có, bị chồng bỏ có, bỏ chồng có... hầu như đủ cả. Ngày ngày con cháu vẫn tạt qua xem ông thế nào nhưng chỉ được những câu cằn nhằn mắng mỏ. Sau khi người thứ năm đi thì người thứ sáu đến, người này được mai mối hẳn hoi. Do một người họ hàng xa của ông Kìn làm mối, bà này đã bỏ chồng và ngoài bốn mươi, trẻ hơn cả bố chồng của Hương. Đến lần này cả họ Cà Mảy không để cho ông Kìn muốn làm gì thì làm nữa, con cháu lại họp gia đình và mọi người bắt đầu phản đối kịch liệt. Họ không đồng ý cho ông lấy thêm một ai về nữa, họ hứa khi nào ông không còn lao động, đi lại được nữa thì họ sẽ chăm sóc ông chứ không đời nào để ông rước ai về nữa, họ khổ lắm rồi.
Hương nhìn sang Pản đang chơi với con, cô tưởng tượng tới cảnh cả gia đình nhỏ lại khăn gói lên nhà cụ nội. Cô lại phải giặt cả đống quần áo cho cả nhà mà không dùng bột giặt, mùa đông phải rửa những cái nồi niêu đầy mỡ trong nước lạnh. Rồi thì lúc ăn cơm cũng không được ngồi sát cạnh chồng, không được gọi tên chồng, đêm đến con ngủ giữa hai vợ chồng tách nhau ra như không quen biết. Không được xem vô tuyến vào buổi tối, không được hát ru con bằng tiếng Kinh... rồi khi ông cụ già yếu hẳn, nhớ đến cảnh những ngày cuối cùng của bà Kìn mà Hương giật mình. Người cô tự dưng nổi da gà lên, mặt biến sắc vì tưởng tượng ra những cảnh hãi hùng, Pản bế con lại gần vợ, anh nhìn cô lo lắng. Buổi họp gia đình vẫn diễn ra rất sôi nổi, Hương bảo nhỏ chồng.
"Em nghĩ cứ để cụ lấy vẫn hơn, chứ lên ở với cụ em sợ lắm, em sẽ ôm con bỏ về mất".
Vợ nói vậy Pản cũng lo lắm, anh yêu vợ và không muốn nhìn vợ phải khổ sở nhưng cũng chẳng muốn ông nội cứ lấy vợ rồi bỏ vợ rồi lại lấy mãi, mà anh cũng đâu muốn sống chúng nhà với ông cụ nội anh. Cuối cùng, con cháu cũng không thắng được quyết định của ông Kìn, ông với người đàn bà kia vẫn về ở với nhau dù không có bữa cơm trình báo tổ tiên gì hết. Người trong bản cũng không biết ông đã có vợ mới, bởi ông giấu "vợ" kỹ lắm, không cho bà đi ra khỏi nhà. Con cháu cũng chẳng buồn đến thăm ông nữa vì họ nghĩ rằng ấy hôm nữa ông lại bỏ bà kia thôi nhưng được hơn một tháng vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Một hôm Pản đến thăm và thấy cảnh vợ trẻ chồng già đang ngồi ngoài hiên cắt quần áo cho trẻ con. Pản mở to mắt, há hốc mồm nhìn, anh không nói lên được một lời nào, lúc này ông nội anh mới đành thú nhận mọi sự thật với anh.
"Bà mày sắp có em bé!"
Pản không tin nổi là anh sắp có ông chú út ít tuổi hơn cả con trai anh, anh không nói được gì thêm nên đành chào hỏi qua loa rồi cáo lui ra về ngay. Về đến nhà Pản đem chuyện này kể với vợ, Hương nghe xong cười phá lên. Nếu như mọi người biết được chuyện này thì chắc đám thanh niên trong bản sẽ đến quỳ trước ông Kìn mà bày tỏ lòng thán phục. Mấy ông trung niên hiếm muộn cũng sẽ đến mời rượu ông và xin ít bí kíp. Ông năm nay đã hơn tám mươi vậy mà vẫn cường tráng đến thế, thật là chuyện hiếm có. Trước khi lại họp gia đình, lại tổ chức đám cưới mẹ chồng Hương bảo cô chuẩn bị làm chăn đệm mới cho ông cụ thằng Vảy. Chuyện này đã gây xôn xao cả bản, nhắc đến ông Kìn khắp xã ai ai cũng biết hết cả, từ trẻ con cho đến cụ già.
Họp gia đình cả họ Cà Mảy như cái chợ vỡ, đây là cuộc họp gia đình vui nhất từ trước đến nay. Một số người khen ông Kìn giỏi, trẻ và khỏe, tuy vậy nếu đứa trẻ ia được sinh ra nó sẽ là một gánh nặng cho cả dòng họ Cà Mảy. Ông Kìn sẽ còn sống được bao lâu nữa chứ, sau này đứa bé ấy lớn lên nó và mẹ nó sẽ được thừa hưởng một phần tài sản của gia đình. Đất cát, ruộng vườn lại sẽ phải chia lại, chia cho ít thì không p phải, chia cho nhiều thì chẳng ai muốn cho.