Vào một buổi sáng trời lạnh thấu xương, Hẩn bắt đầu đau đẻ. Những người muốn mua con của Hần hôm đó đều đến hoặc cử người đại diện đến. Bà Mẳn hôm đó đến đỡ đẻ cho cháu gái. Nghĩ đến cái lợi sẽ được khi bán đứa bé mà cháu mình sắp đẻ ra bà ta mới làm chứ bà Mẳn cũng chẳng muốn dính dáng gì đến cô cháu gái làm cả họ nhà bà mất mặt ấy. Hẩn đẻ khá dễ dàng, con của cô là một bé trai như cô mong muốn. Đứa bé mới sinh được người ta đặt vào trong một cái thúng có lót chiếc váy cũ của Hẩn.Tất cả mọi người đến xem đứa bé đều lặng im, nó không khóc. Nó chỉ khoảng gần hai cân là cùng, nhìn không được tròn trịa, khỏe mạnh gì. Những điều đó chưa phải là tất cả, khắp người đứa bé có những nốt chấm trắng, chấm đen rất lạ. Nó làm người ta phát hãi. Bà Mẳn đắn đo không biết có nên cắt rốn cho nó hay không. Trong đầu bà đã nghĩ đến chuyện hay là gói đứa bé này lại và mang đi chôn quách đi cho xong.
Hẩn vẫn còn chưa hết cơn đau đớn, cô đã từng bao lần ruồng rẫy đứa con này nhưng sau khi sinh nó xong bản năng làm mẹ trong Hẩn như trỗi dậy. Cô đòi bế con, đúng lúc đó đứa bé cũng bắt đầu khóc ré lên. Bà Mẳn đành phải cắt rốn cho nó. Nó được đặt nằm bên cạnh Hẩn liền nín khóc luôn. Những người đến xem lẳng lặng ra về, không một ai tỏ ý muốn đem đứa bé về nuôi vì nó xấu xí và còm cõi quá. Bà Xổm Lánh và bà Mẳn chỉ biết nhìn nhau, bà Hẩn lúc này nhìn con gái và nhìn cháu ngoại với một vẻ vô cùng tức tối. Bà không thể chịu đựng được cái cảnh phải nuôi thêm một miệng ăn và lời lẽ cay nghiệt của thiên hạ nói về mình nữa. Đứa bé không khóc được một hồi lâu, người nó lại cứ tím tái dần đi. Bà Mẳn bảo chắc nó chẳng sống được đâu. Sau khi nói với nhau một vài lời gì đó ở bên ngoài lều, bà Mẳn đi vào trong lều bê lấy cái thúng đựng đứa bé đi ra, nó vẫn im nhưng hình như vẫn còn thở. Hẩn định giằng lại nhưng không đủ sức. Bà Mẳn và vợ chồng em trai Hẩn mang đứa bé đi về khu rừng già tít cuối bản. Mang theo cả dao và cuốc xẻng. Lúc ấy trời đã xâm xẩm tối. Ai cũng biết họ định làm gì.
Lúc đến cửa rừng thì đứa bé bỗng lại khóc ré lên và ngọ nguậy. Có hai vợ chồng từ trong bản Châng đi tới, họ đi trên một chiếc xe đạp cũ, người vợ ngồi sau dắt theo một con bò, người chồng cố đạp xe chậm cho con bò đuổi kịp, chắc họ là người bản khác đến đây mua bò về nuôi. Thấy lạ, hai vợ chồng người bản khác ấy tiến lại gần chỗ bà Mẳn hỏi xem có chuyện gì. Bà Mẳn nhìn hai người lạ đó từ đầu đến chân, trông họ có vẻ hiền lành, phúc hậu và cũng còn khá trẻ. Bà ta nghĩ một lúc rồi bảo đứa bé này mới sinh ra đã không có ai nuôi, thấy nó bị bỏ ở gần rừng bà vừa nhặt được nhưng có vẻ như nó không lớn nổi nên định đem đi làm ma cho nó. Người vợ liền nhìn đứa bé tội nghiệp đang thoi thóp trong chiếc thúng rách. Rồi chị bế lấy đứa bé vào lòng, lấy khăn quàng cổ của mình quấn quanh người nó thay cho tã. Chị tin là nó vẫn sống và sẽ sống khỏe mạnh nếu được nuôi nấng cẩn thận. Nhìn nhau một hồi như hiểu ý nhau, hai vợ chồng kia liền xin bà Mẳn đứa bé mang về nuôi. Như trút được gánh nặng, bà đồng ý ngay. Bà nghĩ chắc đứa bé chẳng sống được mấy tiếng nữa đâu. Khi được hai vợ chồng kia hỏi trong bản có ai có sữa không thì bà Mẳn bảo hình như là không. Như sợ bị trả lại đứa bé bà ta cùng với các cháu mình cáo lui nhanh chóng. Người chồng vội đưa cho bà ta một ít tiền gọi là quà cảm ơn, bà Mẳn không thể từ chối. Còn lại hai vợ chồng với đứa bé, người vợ nói với chồng:
"Mới cho con bé út cai sữa xong, nhưng chắc vẫn còn để tôi cho nó bú xem".
Người chồng cũng lục lọi trong túi có ít nước đường mà họ pha từ nhà mang đi theo để uống, người chồng bảo.
"Cho nó uống cái này được không?"
Người vợ ngần ngừ nhưng mãi không ra sữa nên đồng ý, chị uống và ngậm nước đường trong mồm rồi mớm dần cho đứa bé. Mãi một hồi lâu hai vợ chồng mới giục nhau về vì trời đã tối mịt. Hai vợ chồng đó là người bản Kò Kạ, cách bản Châng khoảng nửa ngày đi đường. Người ta gọi họ là nhà Mai Thiển, Mai là tên con gái đầu, Thiển là tên người chồng. Vợ chồng Mai Thiển đã có ba cô con gái, họ đang buồn rầu vì mãi không đẻ được con trai. Bởi thế đứa bé mang về từ bản Châng là món quà vô cùng quý giá. Cả nhà đều yêu quý nó, họ gọi nó là Lả có nghĩa là út. Những ngày đầu bé Lả còi cọc, ốm yếu và hay khóc nhưng sau vài tháng nó bỗng trở nên kháu khỉnh và bụ bẫm dần. Nó cũng rất ngoan và bắt đầu tập đi, tập nói khá sớm.
Phải mất mười năm sau, Hẩn mới biết là đứa con ngoài giá thú ấy của mình còn sống. Trong mười năm đó cô đã đi lấy chồng ba lần, người chồng đầu tuy là trai chưa vợ nhưng cũng chỉ là một kẻ lang thang, chuyên đi lừa đảo và cũng có con rơi con rớt. Hắn bỏ Hẩn sau khi đã chê trách cô lười biếng, đĩ thõa và đánh đập đủ kiểu. May Hẩn không có con với hắn. Người chồng thứ hai sớm chết vì thuốc phiện. Đến người chồng hiện tại thì có vẻ khá hơn nhưng lại ở rất xa, tận một huyện khác, lại quá già rồi, ông ta muốn có một đứa con nhưng sau hai năm chung sống Hẩn chẳng thấy chửa đẻ được gì. Cuối cùng vì muốn có con quá, chồng Hẩn bảo cô đi nhận con nuôi. Hẩn về bản Châng nói với gia đình bảo muốn tìm xin con nuôi, lúc này bà Mẳn mới đem chuyện mười năm trước ra kể. Giục cô đi tìm mà đòi lại con. Nghe thế, Hẩn cũng tò mò rất muốn biết đứa con ấy giờ thế nào, thế là cô đi tìm dấu tích của nó. Biết cô từng có con riêng, chồng Hẩn không những không tức giận mà còn bắt cô đi tìm lại nó mà đưa về nuôi. Bảo rằng dẫu sao con mình vẫn hơn con người, một giọt máu đào hơn ao nước lã...Sau một năm tìm kiếm Hẩn cũng tìm thấy đứa bé đó, cô biết nó đã được nhà Mai Thiển nuôi nấng.
Hẩn tìm cách để gặp lại con, một lần cả nhà Mai Thiển đi chợ phiên may là cô cũng đi vào dịp đó, có người biết chuyện đã chỉ cho Hẩn thấy đứa con trai mà cô đang tìm kiếm bấy lâu. Hẩn lặng người nhìn nó. Trông nó không có nét gì giống cô cả. Hẩn cố gắng nhìn thật kỹ đứa trẻ, đến bây giờ Hẩn vẫn không biết nó là con của ai. Trông nó không giống Phúc bò, cũng chẳng giống Máng hay bất cứ người đàn ông nào cô từng ân ái ngày xưa. Thấy đứa bé quấn quýt bên vợ chồng Mai Thiển và các chị nó, Hẩn quay mặt đi không nhìn nữa. Hẩn thấy chẳng muốn giành lại nó một chút nào nữa cả. Hôm ấy Hẩn quay về bản Châng, đến đầu bản gió lạnh chợt thổi lên. Mưa như đổ như trút nước, Hẩn bị cảm lạnh. Từ ngày đó cô cứ ốm yếu mãi đi. Hai năm sau đó người chồng già của Hẩn lại mất. Hẩn bỏ nhà đi người ta cũng chẳng biết là cô đã đi đâu, không ai còn nhìn thấy Hẩn nữa.
Hết
Chú thích: Các từ Phạ, Ý, Lả trong truyện là phiên âm từ tiếng Thái.
.